Skip links

Đổi mới doanh nghiệp bằng chiến lược ‘Piggyback’

Cộng đồng mạng xã hội ngày nay đặc biệt cảm thấy thú vị với những màn tương tác theo phong cách trẻ trung và sáng tạo của nhãn hàng như:

piggyback innovation - Startup Wheel tin tức

Momo  và Grab 

piggyback innovation - Startup Wheel tin tức

Baemin và Momo

piggyback innovation - Startup Wheel tin tức

Bình luận của các nhãn hàng khi nghe tin Momo bắt tay cùng Grab

Trong marketing chiến lược này còn được gọi là Piggyback (chiến lược tiếp thị đồng thời), trong đó hai hoặc nhiều doanh nghiệp kết hợp với nhau để quảng bá cho sản phẩm hoặc dịch vụ của mình. Thông thường, các doanh nghiệp sẽ hỗ trợ  nhau bằng cách tạo ra sự liên kết giữa các sản phẩm, ví dụ như khi sử dụng sản phẩm A sẽ cần đến sản phẩm B hoặc khi kết hợp sản phẩm A và B sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn so với khi cạnh tranh trực tiếp trong cùng một lĩnh vực.

Đây là một cách hiệu quả để các thương hiệu, đặc biệt là các thương hiệu nhỏ, có thể tận dụng lợi thế của nhau để mở rộng phạm vi tiếp cận khách hàng và nâng cao nhận thức thương hiệu.

Piggyback không chỉ giúp cải thiện hiệu quả tiếp thị mà còn là một chiến lược đổi mới sáng tạo, giúp tạo ra các hoạt động kinh doanh mới mẻ, đa dạng hóa nguồn thu nhập, nâng cao sức hấp dẫn của sản phẩm và tăng khả năng xuất hiện trên thị trường.

Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những ví dụ về cách các doanh nghiệp trên thế giới áp dụng Piggyback để đổi mới kinh doanh.

1. Tạo ra các doanh nghiệp mới

Năm 2008, Kristo Käärmann, một nhà tư vấn 28 tuổi người Estonia đang làm việc tại London, nhận được khoản tiền thưởng Giáng Sinh (được trả bằng bảng Anh), nhờ khoản tiền đó anh muốn chuyển về Estonia (để có thể trả khoản thế chấp nhà của mình bằng đồng euro).

Anh đã kiểm tra tỷ giá trực tuyến qua Google và anh phải trả khoảng £12 phí chuyển tiền quốc tếcho ngân hàng tại Anh. Nhưng bất ngờ là số tiền Estonia nhận đượ ít hơn khoảng €500 so với dự kiến của anh sau khi ngân hàng trừ đi một khoản phí giao dịch lớn.

Người bạn của Käärmann là Taavet Hinrikus lại gặp vấn đề ngược lại: Ông đang sống tại London làm việc cho công ty tại Estonia, vì thế tiền lương của ông được trả bằng tiền địa phương, điều này khiến ông gặp bất lợi khi cần phải đổi sang đồng bảng Anh.

Hai người nhận ra họ có thể tạo ra một doanh nghiệp để tránh được các khoản phí chuyển tiền quốc tế cắc kỳ đắt đỏ.

Năm 2011, họ thành lập TransferWise (hiện nay được gọi là Wise), một nền tảng cung cấp tỷ giá hối đoái thực sự, không có chi phí ẩn, và thu phí chỉ từ 0,4% mỗi giao dịch.

Nền tảng này ghép đôi các khoản tiền từ hàng triệu người ở các quốc gia khác nhau muốn trao đổi tiền với những người muốn tiền của họ di chuyển theo hướng ngược lại – vì vậy hầu hết số tiền thực tế không bao giờ đi qua biên giới. Công ty có thể thực hiện hiệu quả và ở quy mô lớn bởi vì nền tảng này sử dụng những gì các ngân hàng trên khắp thế giới cung cấp miễn phí hoặc với khoản phí nhỏ: Cả nền tảng và các khách hàng của nó sử dụng các ngân hàng địa phương của họ cho các giao dịch trong nước.

Bằng cách tận dụng các dịch vụ ngân hàng hiện có và kết nối giao dịch trên toàn cầu, nền tảng cho phép khách hàng tránh được các khoản phí chuyển tiền quốc tế do các ngân hàng thương mại lớn thu. Vào năm 2021, công ty đã niêm yết công khai trên Sàn Giao dịch Chứng khoán London và được định giá là 11 tỷ đô la.

2. Đa dạng nguồn thu

Năm 2007, hơn 80% dân số Kenya không có tài khoản ngân hàng, do đó họ không thể sử dụng các dịch vụ tài chính cơ bản như tài khoản tiết kiệm, gửi tiền và thanh toán. Tuy nhiên, điện thoại di động phổ biến và Kenya có một hệ thống viễn thông phát triển cho phép người dùng nạp tiền vào điện thoại trả trước thông qua một mạng lưới rộng lớn của các đại lý được ủy quyền. Sử dụng hệ thống viễn thông và mạng lưới đại lý được ủy quyền này, Safaricom – nhà cung cấp viễn thông lớn nhất Kenya – đã tạo ra M-Pesa: một dịch vụ tài chính cho phép người dùng chuyển đổi tiền mặt thành tiền điện tử (và ngược lại), lưu trữ tiền trên điện thoại và chuyển tiền điện tử cho người khác qua tin nhắn văn bản.

Chỉ trong vòng hai năm, Safaricom đã đăng ký 8,6 triệu khách hàng M-Pesa tại Kenya và có khối lượng giao dịch hơn 328 triệu đô la mỗi tháng. Sự thành công của M-Pesa tại Kenya cũng đã dẫn đến việc mở rộng dịch vụ này đến các nước thu nhập thấp và trung bình khác như Afghanistan, Tanzania, Mozambique, Cộng hòa Dân chủ Congo, Lesotho, Ghana, Ai Cập và Nam Phi.

3. Tăng sức hấp dẫn của sản phẩm

Khoảng 10% dân số thế giới bị suy dinh dưỡng mãn tính, 22% trẻ em bị suy dinh dưỡng và khoảng 2 tỷ người thừa cân. Có những yếu tố, thường bắt nguồn từ bản chất của thói quen ăn uống của chúng ta, từ hoàn cảnh sống và ảnh hưởng đến việc chúng ta ăn gì và ăn như thế nào.

Ví dụ, tại nơi bạn sống, những thực phẩm nào có sẵn cho bạn, những thực phẩm nào bạn có thể mua được, những thực phẩm nào quen thuộc với bạn và những món ăn nào được chấp nhận về văn hóa trong cộng đồng của bạn. Vậy tại sao không tận dụng những gì mà mọi người đã ăn để vượt qua những rào cản này?

Bổ sung dinh dưỡng cho thực phẩm là việc thêm các chất vi lượng vào một loại thực phẩm mà dân số đã ăn. Nhiều nhà sản xuất thực phẩm bổ sung dinh dưỡng cho sản phẩm của họ, cả để tăng giá trị dinh dưỡng và để quảng bá sức hấp dẫn của sản phẩm.

Ví dụ, Nestlé, tập đoàn khổng lồ của Thụy Sĩ, tập trung vào chiến lược bổ sung dinh dưỡng cho 3 tỷ người tiêu dùng của những gì công ty gọi là “sản phẩm định vị phổ biến” (PPPs), bao gồm các thương hiệu như Nescafé, MiloMaggi. Chỉ trong năm 2017, công ty đã bán được 174 tỷ khẩu phần của 4.746 PPPs tại 66 quốc gia có dân số dễ bị thiếu hụt chất vi lượng. Khoảng 83% sản phẩm PPPs của Nestlé được bổ sung ít nhất một trong bốn loại chất vi lượng thiếu hụt “lớn nhất”, theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới: sắt, iốt, kẽm và vitamin A.

Ngoài việc giảm thiểu thiếu hụt chất vi lượng, những sản phẩm này đã đóng góp khoảng 14% tổng doanh thu của công ty, và doanh số bán hàng của chúng đã tăng gần 55% giữa năm 2009, năm Nestlé bắt đầu bổ sung dinh dưỡng cho sản phẩm của mình một cách có hệ thống, và năm 2017.

4. Tăng cường mức độ tiếp cận

Vào mùa đông năm 2015, khi chuẩn bị phát hành bộ phim “50 Sắc Thái” (50 Shades of Grey), Universal Pictures đã tạo ra những áp phích giới thiệu có hình ảnh một nhân vật bí ẩn đứng quay lưng về phía máy ảnh nhìn ra Manhattan từ một văn phòng cao tầng, với dòng chữ “Tiến sĩ Grey sẽ gặp bạn ngay bây giờ”.

Đội ngũ tiếp thị của Paramount, công ty phát hành phim SpongeBob: Sponge Out of the Water, nhanh chóng bắt chước áp phích của Grey, nhưng với hình bóng SpongeBob dễ nhận biết và dòng chữ “Ông SquarePants sẽ gặp bạn ngay bây giờ”. Thay vì đối đầu trực diện với đối thủ, Paramount đã tận dụng thành công của bộ phim của Universal cho chiến lược của mình.

Khi một chiến lược tiếp thị Piggyback được thực hiện tốt, các công ty có thể tăng cường tiếp xúc với khách hàng với chi phí đầu tư nhỏ. Tuy nhiên, nếu làm không tốt có thể dẫn đến hiệu ứng ngược.

Một ví dụ xảy ra với Pepsi cố gắng nhảy vào cuộc vận động của phong trào Black Lives Matter năm 2017 để tăng cường quảng bá thương hiệu. Trong một video quảng cáo trên YouTube, Pepsi đã mượn hình ảnh từ phong trào miêu tả những người biểu tình trẻ tuổi đang cười, vỗ tay, ôm, bắt tay, và cầm những biển hiệu có những khẩu hiệu như “tham gia cuộc trò chuyện”. Điểm cao trào của quảng cáo là khi Kendall Jenner đưa cho sĩ quan cảnh sát lon Pepsi, sau đó là nụ cười từ sĩ quan và sự tán thành của những người biểu tình. Các nhà hoạt động ngay lập tức lên án và cho rằng Pepsi đang xem nhẹ nguy hiểm mà những người biểu tình phải đối mặt.

Trong kinh doanh và trong cuộc sống, chúng ta thường giải quyết vấn đề theo cách mà đã được dạy, không nhìn thấy những cơ hội phi truyền thống. Một mặt, điều này giúp chúng ta tập trung, cho chúng ta một kịch bản tâm lý để tuân theo. Mặt khác, hạn chế khả năng của chúng ta vượt ra ngoài khuôn khổ.

Thông qua một chiến lược Piggyback, các nhà quản lý có thể khám phá những cơ hội mới một cách sáng tạo và tận dụng những cơ hội đó. Có thể có rất nhiều giá trị bị bỏ lỡ nằm trong những kẽ hở mà chúng ta chỉ thấy khi phân tích chi tiết và rõ ràng.